Luật Bảo vệ Môi trường tới đây phải có khái niệm rõ
ràng đâu là phế liệu và đâu là chất thải để tránh tình trạng doanh nghiệp “nhập
nhèm” nhập chất thải dưới dạng phế liệu dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở
thành bãi rác của thế giới - nhiều ý kiến đồng tình đưa ra tại hội thảo góp ý dự
thảo số 4 Luật Bảo vệ Môi trường sửa đổi mới đây ở Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Đình Hòe, Tổng Thư ký Hội Bảo vệ Thiên
nhiên&Môi trường Việt Nam (VACNE), cho hay
dự thảo số 4 dành cả một điều lớn (điều 57) quy định cho phép nhập khẩu phế liệu. “Khoản 2: Tổ chức, cá nhân nhập
khẩu phế liệu để sử dụng trực
tiếp làm nguyên liệu sản xuất phải có công nghệ, thiết bị tái chế, tái sử dụng
phế liệu, xử lý tạp chất đi kèm phế liệu đạt quy chuẩn kỹ thuật về
môi trường; không được cho, bán tạp chất đi kèm phế liệu. Khoản 4: Tổ
chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu phải có trách
nhiệm tái xuất phế liệu trong trường hợp
không đáp ứng tiêu chí về bảo vệ môi trường.”
“Dự thảo số 4 lần này có vẻ “tránh” vấn đề rắc rối
này. Cụ thể trong dự thảo, điều 3 khoản 15 có nêu định nghĩa “phế liệu” nhưng
trong cả chương VIII “Quản lý chất thải” không có nội dung nào đề cập “phế liệu”
.
Suy rộng ra, việc này hàm ý “đối xử” với “phế liệu”
nhập khẩu (thực chất là chất thải) như những chất thải khác và có thể còn được hưởng các
“chính sách ưu đãi” (Điều 67 khoản 3. Tổ chức, cá nhân có hoạt động giảm phát
thải, tái sử dụng, tái chế chất thải, được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan).
“Đây thực sự là sự lập lờ cực kỳ nguy hiểm nhằm tạo
điều kiện cho nhập khảu phế liệu. Thực tế cho thấy phế liệu được nhập khẩu thời gian qua bao giờ cũng chứa một tỷ
lệ nhất định chất thải kể cả chất thải nguy hại. Tái xuất không được, trả lại
bên xuất không được khiến hàng trăm container “phế liệu” nằm ỳ ở cảng chưa biết
xử lý thế nào”, theo ông Hòe.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên&Môi trường, cả nước
có 34 tỉnh, thành phố - với 155 doanh nghiệp - thực hiện hoạt động nhập khẩu phế
liệu, trong đó có 116 doanh nghiệp sản xuất, tái chế trực tiếp nhập khẩu để
phân phối (chiếm khoảng 75%), 28 doanh nghiệp nhập khẩu để phân phối (chiếm khoảng
18%) và 11 doanh nghiệp nhập khẩu ủy thác. Ước tính, tổng số phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất qua các cửa khẩu
vào nước ta năm 2011 vào khoảng 2,9 triệu tấn, chủ yếu là phế liệu sắt, nhựa, giấy, xỉ cát, xỉ slay, thạch cao, v.v…
TS Lê Bích Thủy, Hội Bảo vệ Thiên nhiên&Môi trường Việt Nam (VACNE), lo ngại phế liệu nhập khẩu như pin, ắc quy, bản mạch cũ có nhiều chất
độc hại, tác động tiêu cực về mặt môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe trong quá
trình bốc dỡ, lưu giữ, tái chế.
Nhiều ý kiến cho rằng chính sự không rõ ràng đâu là
phế liệu, đâu là chất thải dẫn đến tình trạng doanh nghiệp lập
lờ nhập chất thải dưới dạng phế liệu. Cứ như thế này nếu
không cẩn thận Việt Nam sẽ trở thành bãi rác khổng lồ của thế
giới.
Cần tách “làng” ra khỏi “nghề”
Trong dự thảo số 4, “Điều 52. Khoản 1 nêu rõ cơ
sở, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại các làng nghề phải
thực hiện các biện pháp kiểm soát tiếng ồn, độ rung, bụi, nhiệt, khí thải, nước
thải và các biện pháp xử lý tại chỗ theo quy định; thu gom, phân loại, lưu giữ,
xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại theo quy định; Đóng góp
kinh phí xây dựng, vận hành và quản lý các công trình về bảo vệ môi trường làng
nghề; nộp phí bảo vệ môi trường theo quy định. Khoản 2. Làng nghề phải có kế hoạch
bảo vệ môi trường theo hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; Có
kết cấu hạ tầng bảo đảm thu gom và xử lý chất thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường”
Ông Hòe cho rằng làng nghề không giống một doanh
nghiệp. Nó có cấu trúc hai trong một, tức là làng và nghề. Làng nghề là “làng
trong nghề và nghề trong làng”. Các hộ dân làm nghề trong làng nghề là những hộ
cá thể, thường thiếu sự hợp tác đủ mức để cùng chăm lo đến môi trường, công nghệ
thường lạc hậu, quản lý nghề theo kiểu gia đình truyền thống, khó áp dụng chế
tài với cộng đồng nông thôn.
Theo Bộ Tài nguyên&Môi trường, hiện cả nước có
hơn 1.300 làng nghề được công nhận và 3.200 làng có nghề. Kết quả khảo sát tại
52 làng nghề điển hình trong cả nước cho thấy, có đến 46% số làng nghề môi trường
bị ô nhiễm nặng (đối với không khí, nước, đất hoặc cả ba dạng trên) và có 27% ô
nhiễm vừa. Theo đánh giá của các chuyên gia môi trường, có rất nhiều nguyên
nhân khiến tình trạng ô nhiễm tại các làng nghề ngày càng trầm trọng. Nguyên
nhân chính là xuất phát từ nhận thức và trách nhiệm của người dân, doanh nghiệp
còn hạn chế. Chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm và trình độ đội ngũ
cán bộ làm công tác bảo vệ môi trường cấp xã chưa đáp ứng được yêu cầu.
Muốn môi trường làng nghề được cải thiện, cần tách
làng (nơi sinh sống) ra khỏi nghề (nơi sản xuất) như kiểu thành lập các khu
công nhiệp nông thôn ở Bắc Ninh. Làng vẫn còn, nghề vẫn còn, nhưng “làng nghề”
thì không còn – đó chính là điều các nhà văn hóa lại không mong muốn.
Ông Hòe gợi ý “Nên chăng cần quy định rõ những nghề
gây ô nhiễm nghiêm trọng cần chuyển sang khu quy hoạch cho sản xuất riêng,
không được sản xuất trong làng”.
- Theo TS Nguyễn Văn Phương, Đại học Luật Hà Nội,
cần phải xác định rõ khải niệm cộng đồng và tạo quyền cho cộng đồng, nhưng
trong dự thảo 4 khái niệm và quyền hạn vai trò của cộng đồng chưa rõ.
- Ngoài những góp ý nêu trên, các đại biểu cho rằng
nên bổ sung quy định về hồi tố môi trường; bổ sung quy định về đảm bảo an
ninh môi trường; nên chăng việc thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường
phải do Bộ Tài nguyên&Môi trường (TNMT) và các chi cục vùng của Bộ TNMT đảm
trách thay cho các tỉnh?.
- Dự thảo số 4 Luật Bảo vệ Môi trường (BVMT) vừa
hoàn thành và đang được trình Chính Phủ xem xét trước khi Quốc hội phê duyệt,
gồm 19 chương 165 điều. So với Luật BVMT cũ 2005 (15 chương 136 điều) bản dự
thảo 4 về cấu trúc đã tăng thêm 4 chương với 29 điều, chưa kể nhiều điều khoản
của Luật BVMT 2005 cũng đã được dự thảo điều chỉnh đáng kể.
|
Mạnh Cường (Vfei)
tinmoitruong.vn
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét