Xử lý nước thải là nhu cầu bức thiết ở nước ta. Theo một vài thống kê thì hiện nay
trên cả nước thì hầu hết các doanh nghiệp, nhà máy đều có hệ thống xử lý
nước thải(HTXLNT). Vấn đề mấu chốt ở đây là đa số các HTXLNT của các
nhà máy đều không xử lý đạt. Chúng ta phải nhìn nhận vấn đề này ở nhiều
khía cạnh.
Chất lượng nước thải sau xử lý không đạt do chủ đầu tư cố tình gây nên!!!
Chi phí xử lý
nước thải 1 m3 có giá thành dao động từ 4.000 đồng-15.000 đồng, nếu một
nhà máy lớn như Vedan, khu công nghiệp Sonadezi Long Thành… thải ra mỗi
ngày trên 5000m3 thì chi phí vận hành sẽ số tiền bỏ ra hàng tháng cả mấy
tỷ đồng. Các nhà máy có lưu lượng nước thải lớn như Vedan rất nhiều.
Nếu doanh nghiệp nào làm ăn có lương tâm thì không sao, nếu họ vì lợi
nhuận, sợ tốn kém do đầu tư HTXLNT, vận hành hệ thống, mà lén lút xả
trộm hậu quả môi trường sống chúng ta lãnh đủ, hậu quả ô nhiễm dài lâu
không thể bù đắp nổi.
Nhưng có rất
nhiều chủ đầu tư làm ăn đàng hoàng, họ không tiếc tiền để đầu tư hệ
thống xử lý nước thải bài bản, nhưng HTXLNT của họ vẫn không đạt. Nguyên
nhân đến các yếu tố quan trọng sau:
- Đến từ các
công ty xây dựng hệ thống: hệ thống xử lý nước thải được tư vấn, thiết
kế, lắp đặt không sát thực tế, dẫn đến khi vận hành gặp vô vàn khó khăn,
èo uột sửa tới sửa lui mãi. Chúng tôi chỉ đơn cử hai hệ thống xử lý
nước thải sau: Công ty dệt nhuộm Phong Phú với HTXLNT công suất 4800
m3/ngày, xây dựng xong không nghiệm thu được do độ màu không xử lý được.
Mất 3 năm, Phó Tổng giám đốc công ty Trần Ngọc Nga cùng nhân viên lặn
lội mưa nắng nghiên cứu mới tạm khắc phục được. Hay như công ty
Rostaing, một nhà đầu tư từ Pháp, là công ty hàng đầu về thuộc da trên
thế giới, đã bỏ ra rất nhiều tiền cho một công ty môi trường nổi tiếng
(ở đây chúng tôi chỉ xin đơn cử chứ không hề có ý định triệt hạ uy tín
của ai, nên xin dấu tên các công ty môi trường đó) xây dựng hệ thống xử
lý mà không đạt, mất tiền sửa đi, sửa lại mãi mà nước thải vẫn không đủ
tiêu chuẩn xả thải, buộc công ty của Pháp phải kiện ra tòa. Ông JACQUES
ROSTAING tổng giám đốc công ty Rostaing chia sẽ: "tôi buộc phải suy nghĩ
về cách làm ăn của người Việt Nam!
- Đến từ người
vận hành hệ thống: Việc xem nhẹ công tác vận hành hệ thống khiến chủ đầu
tư mất nhiều tiền bạc và thời gian hơn cả xây mới hệ thống. Cân đo đong
đếm mức lương một lao động phổ thông với một kỹ sư khiến chủ đầu tư
thiệt hại rất nhiều. Công tác vận hành hệ thống xử lý nước thải rất phức
tạp, nên cần có kỹ sư chuyên ngành môi trường đảm trách. Người vận hành
hệ thống xử lý nước thải là người có tiếng nói quyết định chất lượng
nước thải, giá cả vận hành sau cùng. Theo dõi bông bùn vi sinh phát
triển thế nào, màu bông bùn nói lên vi sinh khỏe hay yếu, hóa chất phèn
sắt, phèn nhôm, axit, xút, polime châm dư hay thiếu, kỹ năng xử lý sự
cố….quyết định tuổi thọ hệ thống, quyết định mức giá thành vận hành hệ
thống.
Dưới đây xin giới thiệu tổng quan các phương pháp xử lý nước thải đang sử dụng tại Việt Nam
II.SƠ LƯỢC CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI
Nước thải nói
chung có chứa nhiều chất ô nhiễm khác nhau, đòi hỏi phải xử lý bằng
những phương pháp thích hợp khác nhau. Sau đây là tổng quan các phương
pháp xử lý nước thải.
Các phương pháp xử lý nước thải được chia thành các loại sau:
- Phương pháp xử lý lý học;
- Phương pháp xử lý hóa học và hóa lý;
- Phương pháp xử lý sinh học.
1. Phương pháp xử lý lý học
Trong nước thải
thường chứa các chất không tan ở dạng lơ lửng. Để tách các chất này ra
khỏi nước thải. Thường sử dụng các phương pháp cơ học như lọc qua song
chắn rác hoặc lưới chắn rác, lắng dưới tác dụng của trọng lực hoặc lực
li tâm và lọc. Tùy theo kích thước, tính chất lý hóa, nồng độ chất lơ
lửng, lưu lượng nước thải và mức độ cần làm sạch mà lựa chọn công nghệ
xử lý thích hợp.
1.1. Song chắn rác
Nước thải dẫn
vào hệ thống xử lý trước hết phải qua song chắn rác. Tại đây các thành
phần có kích thước lớn (rác) như giẻ, rác, vỏ đồ hộp, rác cây, bao
nilon… được giữ lại. Nhờ đó tránh làm tắc bơm, đường ống hoặc kênh dẫn.
Đây là bước quan trọng nhằm đảm bảo an toàn và điều kiện làm việc thuận
lợi cho cả hệ thống xử lý nước thải.
Tùy theo kích thước khe hở, song chắn rác được phân thành loại thô,
trung bình và mịn. Song chắn rác thô có khoảng cách giữa các thanh từ 60
– 100 mm và song chắn rác mịn có khoảng cách giữa các thanh từ 10 – 25
mm. Theo hình dạng có thể phân thành song chắn rác và lưới chắn rác.
Song chắn rác cũng có thể đặt cố định hoặc di động.
Song chắn rác được làm bằng kim loại, đặt ở cửa vào kênh dẫn, nghiêng
một góc 45 – 600 nếu làm sạch thủ công hoặc nghiêng một góc 75 – 850
nếu làm sạch bằng máy. Tiết diện của song chắn có thể tròn, vuông hoặc
hỗn hợp. Song chắn tiết diện tròn có trở lực nhỏ nhất nhưng nhanh bị tắc
bởi các vật giữ lại. Do đó, thông dụng hơn cả là thanh có tiết diện hỗn
hợp, cạnh vuông góc phía sau và cạnh tròn phía trước hướng đối diện với
dòng chảy. Vận tốc nước chảy qua song chắn giới hạn trong khoảng từ 0,6
-1m/s. Vận tốc cực đại giao động trong khoảng 0,75 -1m/s nhằm tránh đẩy
rác qua khe của song. Vận tốc cực tiểu là 0,4m/s nhằm tránh phân hủy
các chất thải rắn.
1.2. Lắng cát
Bể lắng cát
được thiết kế để tách các tạp chất vô cơ không tan có kích thước từ
0,2mm đến 2mm ra khỏi nước thải nhằm đảm bảo an toàn cho bơm khỏi bị
cát, sỏi bào mòn, tránh tắc đường ống dẫn và tránh ảnh hưởng đến các
công trình sinh học phía sau. Bể lắng cát có thể phân thành 2 loại: bể
lắng ngang và bể lắng đứng. Ngoài ra để tăng hiệu quả lắng cát, bể lắng
cát thổi khí cũng được sử dụng rộng rãi.
Vận tốc dòng chảy trong bể lắng ngang không được vượt qua 0,3 m/s. Vận
tốc này cho phép các hạt cát, các hạt sỏ và các hạt vô cơ khác lắng
xuống đáy, còn hầu hết các hạt hữu cơ khác không lắng và được xử lý ở
các công trình tiếp theo. src="http://xulymoitruong.com/images/image/demo/anh-hao.png" style="height: 1px; width: 4px;" />
1.3. Lắng
Bể lắng có
nhiệm vụ lắng các hạt cặn lơ lửng có sẵn trong nước thải (bể lắng đợt 1)
hoặc cặn được tạo ra từ quá trình keo tụ tạo bông hay quá trình xử lý
sinh học (bể lắng đợt 2). Theo dòng chảy, bể lắng được phân thành: bể
lắng ngang và bể lắng đứng.
Trong bể lắng ngang, dòng nước chảy theo phương ngang qua bể với vận tốc
không lớn hơn 0,01 m/s và thời gian lưu nước thừ 1,5 – 2,5 h. Các bể
lắng ngang thường được sử dụng khi lưu lượng nước thải lớn hơn 15000
m3/ngày. Đối với bể lắng đứng, nóc thải chuyển động theo phương thẳng
đứng từ dưới lên đến vách tràn với vận tốc từ 0,5 – 0,6 m/s và thời gian
lưu nước trong bể dao động khoảng 45 – 120 phút. Hiệu suất lắng của bể
lắng đứng thường thấp hơn bể lắng ngang từ 10 – 20 %.
1.4. Tuyển nổi
Phương pháp
tuyển nổi thường được sử dụng để tách các tạp chất (ở dạng rắn hoặc
lỏng) phân tán không tan, tự lắng kém khỏi pha lỏng. Trong một số trường
hợp, quá trình này còn được dùng để tách các chất hòa tan như các chất
hoạt động bề mặt. Trong xử lý nước thải, quá trình tuyển nổi thường được
sử dụng để khử các chất lơ lửng, làm đặc bùn sinh học. Ưu điểm cơ bản
của phương pháp này là có thể khử hoàn toàn các hạt nhỏ, nhẹ, lắng chậm
trong thời gian ngắn.
Quá trình tuyển nổi được thực hiện bằng cách sục các bọt khí nhỏ vào pha
lỏng. Các bọt khí này sẽ kết dính với các hạt cặn. Khi khối lượng riêng
của tập hợp bọt khí và cặn nhỏ hơn khối lượng riêng của nước, cặn sẽ
theo bọt nổi lên bề mặt.
Hiệu suất quá trình tuyển nổi phụ thuộc vào số lượng, kích thước bọt
khí, hàm lượng chất rắn. Kích thước tối ưu của bọt khí nằm trong khoảng
15 – 30 micromet (bình thường từ 50 – 120 micromet). Khi hàm lượng hạt
rắn cao, xác xuất va chạm và kết dính giữa các hạt sẽ tăng lên, do đó,
lượng khí tiêu tốn sẽ giảm. Trong quá trình tuyển nổi, việc ổn định kích
thước bọt khí có ý nghĩa quan trọng.
2. Phương pháp xử lý hóa học và hóa lý
2.1. Trung hòa
Nước thải chứa
acid vô cơ hoặc kiềm cần được trung hòa đưa pH về khoảng 6,5 – 8,5 trước
khi thải vào nguồn nhận hoặc sử dụng cho công nghệ xử lý tiếp theo.
Trung hòa nước thải có thể thực hiện bằng nhiều cách:
- Trộn lẫn nước thải acid và nước thải kiềm;
– Bổ sung các tác nhân hóa học;
- Lọc nước acid qua vật liệu có tác dụng trung hòa;
– Hấp thụ khí acid bằng nước kiềm hoặc hấp thụ ammoniac bằng nước acid.
2.2. Keo tụ – tạo bông
Trong nguồn
nước, một phần các hạt thường tồn tại ở dạng các hạt keo mịn phân tán,
kích thước các hạt thường dao động từ 0,1 – 10 micromet. Các hạt này
không nổi cũng không lắng, và do đó tương đối khó tách loại. Vì kích
thước hạt nhỏ, tỷ số diện tích bề mặt và thể tích của chúng rất lớn nên
hiện tượng hóa học bề mặt trở nên rất quan trọng. Theo nguyên tắc, các
hạt nhỏ trong nước có khuynh hướng keo tụ do lực hút Vander Waals giữa
các hạt. Lực này có thể dẫn đến sự kết dính giữa các hạt ngay khi khoảng
cách giữa chúng đủ nhỏ nhờ va chạm. Sự va chạm xảy ra nhờ chuyển động
Brown và do tác động của sự xáo trộn. Tuy nhiên trong trường hợp phân
tán cao, các hạt duy trì trạng thái phân tán nhờ lực đẩy tĩnh điện vì bề
mặt các hạt mang tích điện, có thể là điện tích âm hoặc điện tích dương
nhờ sự hấp thụ có chọn lọc các ion trong dung dịch hoặc sự ion hóa các
nhóm hoạt hóa. Trạng thái lơ lửng của các hạt keo được bền hóa nhờ lực
đẩy tĩnh điện. Do đó, để phá tính bền của hạt keo cần trung hòa điện
tích bề mặt của chúng, quá trình này được gọi là quá trình keo tụ. Các
hạt keo đã bị trung hòa điện tích có thể liên kết với các hạt keo khác
tạo thành bông cặn có kích thước lớn hơn, nặng hơn và lắng xuống, quá
trình này được gọi là quá trình tạo bông.
3. Phương pháp sinh học
Phương pháp
sinh học được ứng dụng để xử lý các chất hữu cơ hòa tan có trong nước
thải cũng như một số chất vô cơ như H2S, Sunfit, ammonia, Nito… dựa trên
cơ sở hoạt động của vi sinh vật để phân hủy các chất hữu cơ gây ô
nhiễm. Vi sinh vật sử dụng chất hữu cơ và một số khoáng chất để làm
thức ăn. Một cách tổng quát, phương pháp xử lý sinh học có thể phân
thành 2 loại:
- Phương pháp kị khí sử dụng nhóm vi sinh vật kị khí, hoạt động trong điều kiện không có oxy.
- Phương pháp hiếu khí sử dụng nhóm vi sinh vật hiếu khí, hoạt động trong điều kiện cung cấp oxy liên tục.
Quá trình phân
hủy các chất hữu cơ nhờ vi sinh vật gọi là quá trình oxy hóa sinh hóa.
Để thực hiện quá trình này, các chất hữu cơ hòa tan, cả chất keo và chất
phân tán nhỏ trong nước thải cần di chuyển vào bên trong tế bào vi sinh
vật theo 3 giai đoạn chính như sau:
– Chuyển các chất ô nhiễm từ pha lỏng đến bề mặt tế bào vi sinh vật.
– Khuếch tán từ bề mặt tế bào qua màng bán thấm do sự chênh lệch nồng độ bên trong và bên ngoài tế bào.
– Chuyển hóa các chất trong tế bào vi sinh vật, sản sinh năng lượng và tổng hợp tế bào mới.
Tốc độ quá
trình oxy hóa sinh hóa phụ thộc vào nồng độ chất hữu cơ, hàm lượng các
tạp chất và mức độ ổn định của lưu lượng nước thải vào hệ thống xử lý. Ở
mỗi điều kiện xử lý nhất định, các yếu tố chính ảnh hưởng đến tốc độ
phản ứng sinh hoá là chế độ thủy động, hàm lượng oxy trong nước thải,
nhiệt độ, pH, dinh dưỡng và các yếu tố vi lượng.
3.1. Phương pháp sinh học kỵ khí
Quá trình phân
hủy kỵ khí các chất hữu cơ là quá trình sinh hóa phức tạp tạo ra hàng
trăm sản phẩm trung gian và phản ứng trung gian. Tuy nhiên phương trình
phản ứng sinh hóa trong điều kiện kỵ khí có thể biểu diễn đơn giản như
sau:
Vi sinh vật
Chất hữu cơ ——————> CH4 + CO2 + H2 + NH3 + H2S + Tế bào mới
Một cách tổng quát quá trình phân hủy kỵ khí xảy ra theo 4 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: thủy phân, cắt mạch các hợp chất cao phân tử;
- Giai đoạn 2: acid hóa;
- Giai đoạn 3: acetate hóa;
- Giai doạn 4: methan hóa.
Các chất thải
hữu cơ chứa nhiều chất hữu cơ cao phân tử như proteins, chất béo,
carbohydrates, celluloses, lignin,…trong giai đoạn thủy phân, sẽ được
cắt mạch tạo những phân tử đơn giản hơn, dễ phân hủy hơn. Các phản ứng
thủy phân sẽ chuyển hóa protein thành amino acids, carbohydrate thành
đường đơn, và chất béo thành các acid béo. Trong giai đoạn acid hóa, các
chất hữu cơ đơn giản lại được tiếp tục chuyển hóa thành acetic acid, H2
và CO2. Các acid béo dễ bay hơi chủ yếu là acetic acid, propionic acid
và lactic acid. Bên cạnh đó, CO2 và H2, methanol, các rượu đơn giản khác
cũng được hình thành trong quá trình cắt mạch carbohydrate. Vi sinh vật
chuyển hóa methan chỉ có thể phân hủy một số loại cơ chất nhất định như
CO2 + H2, formate, acetate, methanol, methylamines, và CO.
Tùy theo trạng thái của bùn, có thể chia quá trình xử lý kỵ khí thành:
- Quá trình xử
lý kỵ khí với vi sinh vật sinh trưởng dạng lơ lửng như quá trình tiếp
xúc kỵ khí (Anaerobic Contact Process), quá trình xử lý bằng lớp bùn kỵ
khí với dòng nước đi từ dưới lên (UASB);
- Quá trình xử lý kỵ khí với vi sinh vật sinh trưởng dạng dính bám như quá trình lọc kỵ khí (Anaerobic Filter Process).
3.2. Phương pháp xử lý sinh học hiếu khí trong xử lý nước thải
Quá trình xử lý sinh học hiếu khí nước thải gồm ba giai đoạn:
- Oxy hóa các chất hữu cơ;
- Tổng hợp tế bào mới;
- Phân hủy nội bào.
Các quá trình
xử lý sinh học bằng phương pháp hiếu khí có thể xảy ra ở điều kiện tự
nhiên hoặc nhân tạo. Trong các công trình xử lý nhân tạo, người ta tạo
điều kiện tối ưu cho quá trình oxy hóa sinh hóa nên quá trình xử lý có
tốc độ và hiệu suất cao hơn rất nhiều. Tùy theo trạng thái tồn tại của
vi sinh vật, quá trình xử lý sinh học hiếu khí nhân tạo có thể chia
thành:
- Xử lý sinh học hiếu khí với vi sinh vật sinh trưởng dạng lơ lửng chủ
yếu được sử dụng để khử chất hữu cơ chứa carbon như quá trình bùn hoạt
tính, hồ làm thoáng, bể phản ứng hoạt động gián đoạn, quá trình lên men
phân hủy hiếu khí. Trong số các quá trình này, quá trình bùn hoạt tính
là quá trình phổ biến nhất.
- Xử lý sinh học hiếu khí với vi sinh vật sinh trưởng dạng dính bám như
quá trình bùn hoạt tính dính bám, bể lọc nhỏ giọt, bể lọc cao tải, đĩa
sinh học, bể phản ứng nitrate với màng cố định.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét